Trong ngành chăn nuôi, việc chẩn đoán đáng tin cậy nhất phải được thực hiện ở nhiều giai đoạn, phải theo trình tự các bước, hạn chế tối thiểu việc rút ngắn bất kỳ bước nào.
1. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng:
- Heo con còi cọc nhanh
- Lông xù
- Tiêu chảy
- Khó thở
- Vàng da
Bên cạnh đó, PCV2 còn là một trong những nguyên nhân gây ra hội chứng hô hấp phức hợp trên heo, do đó việc chẩn đoán phân biệt khó khăn hơn, hoặc PCV2 gây rối loạn sinh sản như: chết ngợp hoặc thai gố, hoặc heo con đẻ ra yếu, tất cả các triệu chứng này đều không rõ rang. Ở bước này, việc chẩn đoán cần phải kết hợp với tiền sử của bệnh ở trong trại.
Sơ đồ chẩn đoán
2. Chẩn đoán bệnh vỹ mô: Mổ khám bệnh tích ở trại
Khi heo bị bệnh PCV2 thì khi mổ khám sẽ thấy các bệnh tích sau:
- Hạch bạch huyết sưng to (đặc biệt là hạch bẹn nông và hạch màng treo ruột),
- Phù phổi kẽ của bệnh viêm phổi kẽ.
- Bệnh tích điển hình của bệnh viêm thận,…
Ngoài ra, nó còn gây rối loạn sinh sản: chết ngợp, heo con đẻ ra yếu, thai yếu do PCV2 gây rối loạn tim thai.
Việc mổ khám bệnh tích là cách duy nhất để chẩn đoán hiệu quả trên con heo đã chết.
Hai bước đầu tiên sẽ có thể đưa ra một chẩn đoán sơ bộ, và có thể đủ để áp dụng một liệu trình điều trị, nhưng trong một số trường hợp, cần phải tiến hành thêm một bước chẩn đoán nữa để xác định chắn chắn hơn. Nếu việc chẩn đoán bệnh do PCV2 chỉ dựa vào 2 bước trên thì chưa đủ để chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác. Vì vậy cần phải tiến hành chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
3. Chẩn đoán phòng thí nghiệm:
Lấy mẫu sau khi khám lâm sàng hoặc sau khi mổ khám bệnh tích.
Trong số các kỹ thuật phòng thí nghiệm thì phương pháp chẩn đoán được sử dụng chủ yếu với độ chính xác cao là chẩn đoán mô bệnh học, phương pháp xét nghiệm huyết thanh học (đặc biệt kỹ thuật này phân biệt được kháng thể IgG và IgM, cho phép xác định bệnh ở giai đoạn đầu hay giai đoạn cuối), phương pháp chẩn đoán bằng kỹ thuật phân tử PCR và lai tại chỗ.
Tất cả các phương pháp này đều có điểm mạnh và điểm yếu. Phương pháp mô bệnh học sẽ xác định sự có mặt của các bệnh tích vi thể đặc trưng do PCV2 ở các mô bạch huyết (hạch bạch huyết bị suy giảm và viêm u hạt), ở phổi (viêm phổi kẽ), ở ruột hoặc ở tim thai (xơ hoặc hoại tử cơ tim). Phương pháp hóa mô miễn dịch và lai tại chỗ cho phép xác định mối liên hệ giữa virus và bệnh tích ở các mô khác nhau.
Phương pháp PCR cho phép xác định sự có mặt của virus trong máu hoặc virus bài thãi (trong trường hợp bào thai, nếu số lượng sao chép PCV2 genome/500ng của đoạn DNA tách chiết lớn hơn 107 thì chắc chắn nhiễm PCV2), nhưng phương pháp này không xác định được mối liện hệ giữa virus và bệnh tích.
Hơn nữa, kết quả kiểm tra huyết thanh học dương tính sẽ phản ánh mối liên hệ với virus. Ngoài ra, dựa vào kết quả huyết thanh học sẽ đánh giá chương trình vaccine, đôi khi việc này sẽ làm cho chúng ta thấy bối rối vì thực tế nếu kết quả huyết thanh âm tính sau khi tiêm vaccine cũng không có nghĩa là con heo không được bảo hộ. Và thậm chí, phương pháp này còn xác định sự có mặt của kháng thể IgG trong thai gỗ, mặc dù nó không rõ ràng rằng dấu hiệu này liên quan đến nhiễm PCV2 trong tử cung.
Khi có kết quả phòng thí nghiệm rồi thì kết hợp với các chẩn đoán sơ bộ để có kết quả chẩn đoán cuối cùng.